
Tên tôi là Finn. Lớn lên, tôi vẫn luôn là một đứa trầm tính. Tôi luôn làm việc riêng của mình, nhưng vẫn đã có thể hoà nhập bản thân với một nhóm bạn, không ai quá nổi cũng không ai vô danh. Lên đại học tôi vẫn giữ nguyên nếp sống ấy, và chợt nhận ra một phần quan trọng của cuộc sống bấy lâu nay tôi đã bỏ lỡ. Những người bạn của tôi đều có hàng tá những câu chuyện điên rồ và những chuyến phiêu lưu kì thú khiến người ta ngồi nghe im như thóc; phần lớn là chuyện của Lexi. Cô ấy đã đi du lịch vòng quanh thế giới, điều này đã giúp cô gặp được rất nhiều người thú vị và cũng đã đẩy cô vào những tình huống khá oái oăm. Tôi cũng muốn được như vậy. Nó có nằm ngoài khả năng của tôi không? Chắc chắn rồi. Nhưng vậy mới vui chứ, nhỉ? Vậy nên sau khi tốt nghiệp đại học, tôi hỏi cô ấy cách để sắp xếp một chuyến đi tự túc. Tôi muốn xách balo lên và đi, sống trong những điều kiện khắc nghiệt, ở trú lại những gia đình cho ở nhờ hoặc các nhà nghỉ. Như cô ấy đã làm vậy. Cô ấy hỏi tôi về những nơi tôi muốn đến, và chúng tôi đã nói chuyện về những nước khả thi.
–
Tôi chọn đi du lịch quanh Châu Á. Đó là nơi tôi chưa từng đặt chân đến, và nền văn hoá đa dạng khác nhau từ nước này đến nước kia, từ thành phố này đến thành phố nọ đã kích thích trí tò mò của tôi. Tôi yêu cách Lexi nói về từng nước như: Ấn Độ, Uzbekistan, Thái, Việt Nam và Hàn Quốc. Cuối cùng, cô ấy liên hệ tôi với những người cô từng gặp trên đường; những người sẽ cho tôi ở nhờ hoặc trợ giúp tôi khoản công việc, và cứ như vậy tôi vẽ ra lịch trình đi của mình.
Lexi cho tôi những điểm có thể trú chân trên đường miễn phí, thi thoảng tôi mới phải ghé nhà nghỉ. Chuyến đi ấy thật sự rất tuyệt vời. Nó đã khơi dậy một mặt khác trong tôi mà tôi vẫn luôn biết về, nhưng hiếm khi phơi bày ra. Tôi đã thử nói chuyện với người địa phương, thử nói tiếng địa phương với người bản xứ, hoà nhập với nền văn hoá của mỗi nơi tôi đến. Tôi sống như vậy ngày này qua ngày khác, ngủ quên trên những chuyến xe buýt đông kịt, hay đi nhờ xe với người lạ – những người mà tôi sớm trở thành bạn cùng. Tôi cũng đã ở trú tại rất nhiều gia đình, tất cả đều cho tôi những trải nghiệm khác nhau, và giờ tôi sẽ ở với một gia đình cuối cùng trước khi kết thúc chuyến đi của mình.
Tôi lôi ra lịch trình mà Lexi và tôi đã tính toán sẵn từ nhiều tháng trước. Gia đình cuối mà tôi ở cùng là một trong số ít những gia đình yêu cầu tôi phải đến đúng hẹn. Họ sống trong một ngôi làng bị cô lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài, được bao quanh bởi đồi núi Nhật Bản, và họ kì vọng tôi đến đúng ngày giờ đã hẹn. Tuy Lexi chưa ở với gia đình này bao giờ, cô ấy đã định làm như vậy. Chuyến đi của cô ấy bị cắt ngắn vì lý do cá nhân, và cô chưa bao giờ có cơ hội được gặp họ. Cô ấy mới chỉ giao tiếp với gia đình này qua một người bạn chung, vì gia đình này hoàn toàn không có kết nối với mạng Internet và cũng không biết nhiều về Tiếng Anh. Tất cả những gì tôi được bảo là tên ngôi làng và chỉ dẫn: Đi đến trung tâm ngôi làng, ở nơi đó tôi sẽ được chào đón bởi gia đình ấy. Và đó là tất cả những gì tôi biết. Đó là thứ khiến việc này thật thú vị.
À, tôi biết tên của gia đình ấy nữa.
Gia đình Nomura.
–
Đi lại ở đây thật sự mệt mỏi. Tôi đã phải đi phà từ Hàn Quốc đến đảo Honshu, Nhật Bản. Từ đó, tôi phải đi hơn chục chuyến xe buýt, trước khi phải đi bộ tầm 30 phút lên một con đường mòn nhỏ qua những rặng cây. May mắn thay, người lái xe buýt biết ngôi làng đó ở đâu, vì nếu tôi bị bỏ lại giữa đồng không mông quạnh với tấm bản đồ và vốn tiếng Nhật ít ỏi của tôi, tôi sẽ lạc mất. Ông ấy chỉ tôi hướng về phía ngôi làng. Tuy đi lại mệt là vậy, nhưng công sức bỏ ra vô cùng xứng đáng. Ngôi làng đẹp tuyệt trần. Nó khá rộng lớn, nằm trên một tấm thảm cỏ xanh mướt, dựa vào một ngọn núi nhỏ bao quát khung cảnh những mái nhà gỗ truyền thống. Khi tôi đi bộ trên phố, ai cũng cười và gật đầu. Tôi đoán rằng có lẽ khá ít người từ bên ngoài ghé thăm nơi này. Tôi cảm thấy thật sự được trân trọng khi được là một trong số họ. Nhà cửa ở đây được làm từ gỗ và đất sét, tạo ra một vẻ ngoài cổ điển tôn lên thảm cỏ xanh rờn bên dưới. Vài ngôi nhà thì có cổng ngoài to lớn, những nhà còn lại thì lại có cửa trượt truyền thống. Vừa dạo phố tôi vừa trầm trồ trước cuộc sống xô bồ náo nhiệt nơi đây, trái ngược với vẻ đẹp tự nhiên của ngọn núi bên trên. Tôi sớm thấy một khu vực mà tôi khá chắc là quảng trường trung tâm của ngôi làng, một khu trống trải giữa các ngôi nhà gỗ, với một bức tượng đẹp đẽ đứng hiên ngang tại trung tâm. Tôi vừa đến ngắm bức tượng ấy, thì chợt một cô gái tiếp cận tôi, tầm hơn 20 tuổi, và cười.
“Finn?”, cô ấy hỏi, cố gắng phát âm đúng tên tôi.
“Đúng vậy! Chào cô!”, tôi trả lời, “Cô từ gia đình Nomura nhỉ?”
“Đúng! Đúng!”, cô ấy hào hứng đáp lời, “Chào mừng. Tôi là Ren.”
“Chào, Ren”, tôi tự giới thiệu bản thân, “Tên tôi là Finn. Cảm ơn vì đã cho tôi trú chân tại đây”.
Vốn Tiếng Anh của cô ấy khá tốt. Tôi thấy nhẹ nhõm vì có thể nói chuyện với ai đó và được chỉ dẫn xung quanh, tôi cứ tưởng là sẽ có rào cản ngôn ngữ chứ.
“Làm ơn đi, không sao đâu. Chúng tôi rất hào hứng”, cô ấy nói, “Cậu có muốn đi với tôi không?”
Dĩ nhiên là tôi đồng ý. Tôi rất muốn xem nơi tôi ở trong tuần cuối cùng của chuyến đi này. Trên đường về nhà, Ren bảo tôi rằng nhà cô ấy không ai nói Tiếng Anh cả, ngoại trừ mẹ cô ấy, người mà cô ấy đang dạy. Ren bảo rằng cô ấy đã học được Tiếng Anh khi cô chuyển ra ngoài ngôi làng đến Kyoto, nơi cô có thể dễ dàng đăng ký các lớp học thêm. Tôi càng đi, những ngôi nhà quanh tôi càng trở nên to hơn và cách xa nhau hơn. Ren bảo rằng nhà cô ấy nằm ngay ngoài ngôi làng thôi, và nơi chúng tôi đang đi qua là khu ở của những gia đình giàu có hơn. Nhìn chung quy lại, nhà cô ấy cũng chỉ cách quảng trường tầm 20 phút đi bộ, được nối liền bởi một con đường xinh xắn, xanh tươi, bao quanh bởi những bụi cây và hoa lá. Nó bị cô lập nhiều hơn so với những ngôi nhà ở trung tâm ngôi làng, và tôi thấy rất vui về điều đó vì tôi có thể tận hưởng cả nhịp sống làng quê và vẻ đẹp thiên nhiên bao quanh nó một cách hết mình.
–
Nhà Ren đẹp thực sự. Thiết kế tinh xảo khắc in trên mái nhà nâu sáng, bao trùm khung cửa lớn trước nhà. Những bức tường gỗ ngoài nhà sạch bóng y như mới vậy. Sự cách biệt của ngôi nhà càng làm nổi bật vẻ đẹp của nó, vì không thứ gì có thể làm bạn phân tâm khỏi bề ngoài uy thế ấy. Tôi trúng số rồi. Ren mở cửa trước và mời tôi vào bên trong.
Ngôi nhà được chia làm hai gian; một khu chính với bàn ăn và bếp, khu còn lại gồm các phòng ngủ và phòng vệ sinh. Hai phần của ngôi nhà được nối bằng một lối nhỏ bên ngoài trời, cho bạn toàn cảnh những vườn hoa đậm sắc bên dưới. Khu chính gồm một bàn ăn thấp, gần chạm đất. Ngay gần đó là khu vực bếp, và một chỗ để những thứ nhìn như là nhạc cụ. Trong phía góc xa xa của căn phòng là một cái bàn thờ nhỏ.
Qua lối đi đã nói ở trên, ta đến được khu phòng ngủ. Một hành lanh rộng, dài, hai bên là các phòng với cửa trượt được làm từ (tôi nghĩ là) giấy gạo. Ren chỉ tôi đến phòng mình, phòng thứ 3 từ trên xuống. Phòng tôi khá đơn điệu; một tấm nệm trải trên sàn, một chiếc bàn nhỏ nhắn được cố định ngay dưới một khung cửa sổ quá cao để có thể nhìn ra ngoài. Như phần còn lại của căn nhà, sàn và tường phòng đều làm bằng gỗ. Tôi đặt balo xuống và sắp xếp lại đồ đạc, trước khi gặp gia đình Ren.
–
Tôi gặp những người còn lại của gia đình Ren qua bữa tối. Ren có một người em gái tên là Hina, và cô bé khá trầm tính. Cô bé ấy nhỏ hơn Ren, tầm 17 tuổi, và có vẻ như em ấy chỉ ngại ngùng khi ở gần tôi. Mẹ của Ren, Saeko, thì lại rất ngọt ngào và dễ mến. Bà ấy còn cố sử dụng vốn Tiếng Anh của bà để khiến tôi cảm thấy được chào đón hơn, và đã mời tôi nhiều thức ăn đến mức tôi không thể xử lý hết nổi. Bố Ren, trái ngược thay, thì lại kém niềm nở hơn. Ông ấy là một người đàn ông nghiêm túc, ông chỉ nói chuyện với vợ mình sau khi chào tôi bằng một cái gật đầu. Lạ lùng thay, tôi còn được bảo rằng nên gọi ông ấy là Cha Hamura (Father Hamura). Tuy tôi không mong chờ điều này, tôi sẽ không tọc mạch miễn là họ giúp tôi bằng việc cho tôi ở lại đây. Tôi cho rằng đó là dấu hiệu của sự tôn trọng. Bữa tối, trái lại, thì rất tuyệt vời. Saeko rõ ràng đã dồn rất nhiều công sức vào đó. Tôi đang bắt đầu cảm thấy thoải mái với việc ở đây thì Ren kéo tôi sang một bên trong lúc chúng tôi rời bàn ăn.
“Finn”, cô ấy kéo tay tôi, mắt đối mắt với tôi, “căn phòng cuối cùng ở khu phòng ngủ, đấy là phòng ông bà tôi. Căn phòng ở cuối hành lanh ấy. Cậu không được đi vào đó đâu.”
“Ồ, tôi không nhận ra ông bà cậu cũng ở đây nữa luôn”, tôi đáp vì chưa thấy họ lần nào.
“Có, họ có ở đây”, cô ấy nói, “và cậu chắc chắn không được bén mảng đến gần phòng họ, được không?”
Được thôi…. Tôi thấy hơi lạ. Dĩ nhiên tôi sẽ không bén mảng đến phòng ai khác rồi, nhưng nếu cô ấy định cảnh báo tôi về chuyện đó, sao chỉ nhắc đến phòng của ông bà cô ấy?
–
Tôi vừa về sau một cuộc dạo chơi quanh làng cùng với Ren. Cô ấy dẫn tôi đi các nơi trong làng một cách thật nhanh chóng trước khi trời tối và bọn tôi phải quay về nhà. Trên đường về phòng mình, tôi chẳng thấy ai cả, kể cả ở khu chính hay hành lang khu phòng ngủ. Tôi cảm ơn Ren và nói rằng tôi sẽ gặp cô vào ngày mai. Mệt mỏi vì chuyến đi dài, tôi rơi vào giấc ngủ.
–
Tôi bị đánh thức bởi tiếng thì thầm.
Tiếng thì thầm ấy khá khô khan và dài. Tôi không thể hiểu được nó đang nói gì; hình như đó là tiếng Nhật. Đó là một tiếng thì thầm khá nhanh, như thể một câu thần chú vậy. Ai đó đang lặp lại một cái gì đấy. Tôi ngồi dậy, cố nhìn xuyên qua bóng tối và thấy cánh cửa trượt của mình. Nó đến từ bên ngoài hành lang, hay nói đúng hơn là ngay ngoài phòng tôi. Câu thần chú bây giờ còn nhanh hơn nữa, lặp đi lặp lại câu từ không rõ ràng ấy. Cái quái gì vậy? Nó có nghĩa là gì?
Đột nhiên, tiếng thì thầm dừng lại. Tôi ngồi đó trong yên lặng, chờ xem chuyện gì sẽ xảy ra. Những bước chân. Từ cuối hành lang. Tiếng bước chân ngày càng to lên và hướng về phía phòng của tôi, ngay trước khi vượt qua nó, có vẻ như đang đi về phía lối ra. Trong lúc nó vượt qua cửa phòng tôi, tôi nhìn được một cái bóng đen qua lớp giấy gạo. Nó chuyển động khá nhanh. Lạ thật. Tôi ra khỏi giường, nhích từng tí một về phía cánh cửa. Tôi dần trượt cánh cửa ấy, hé nhìn vào hành lang tối tăm trước mặt mình. Trống không. Tôi nhìn về một đầu hành lang, không thấy gì, nhìn về đầu còn lại, cũng không có gì cả. Tôi vừa định đóng cửa và quay lại ngủ thì thấy dấu chân ướt. Chúng bắt đầu từ căn phòng cuối hành lang đến tận chỗ đường đi nhỏ nối giữa hai khu nhà. Tôi có thể thấy rõ ràng rằng ai tạo ra chúng đã đi chân trần, vài dấu chân còn rõ đến mức tôi có thể đếm số ngón chân. Tôi miễn cưỡng đi theo chúng.
Đang định mở cánh cửa ra ngoài lối nối ngoài trời, tôi nghe thấy tiếng cánh cửa của phòng ngủ ai đó bật mở. Đó là Ren.
“Ren,” tôi lắp bắp, “a-ai đó vừa chạy qua phòng tôi”.
Cô ấy suỵt tôi, “bà tôi đấy”, cô ấy thì thầm, “bà ấy hay có mấy vấn đề về đêm. Bà thường chạy vào làng giữa khuya. Bố tôi sẽ dẫn bà về.”
Tôi cho rằng ý Ren là ác mộng hay mộng du, mấy thứ kiểu đó. Sợ hãi, tôi xin lỗi Ren, và đi về giường ngủ.
–
Không khí lạnh buổi sáng đã đánh thức tôi dậy vào sáng hôm đó. Ánh sáng len lỏi qua từng khung cửa phía trên, trong lúc tôi ngồi dậy. Tôi hoàn toàn không biết lúc đó là mấy giờ, chỉ biết rằng sau một chuyến du lịch dài như thế tôi có thể ngủ hàng giờ liền. Có lẽ tôi nên dậy và xem chuyện gì đang xảy ra. Tôi lăn khỏi giường, ngồi trên sàn và lục vali của mình. Sau đó tôi thay đồ, và quay về phía cửa phòng ngủ. Tôi khá hoảng về việc xảy ra đêm trước đó, nhưng vì đây là đêm đầu của tôi, nên tôi chắc chắn sẽ không nói về chuyện đó. Tôi đi ra ngoài hành lang, và ngay khi nhìn lại căn phòng trước khi đóng cửa, tôi thấy những dấu chân.
Vẫn là những dấu chân trần, ướt át mà tôi nhìn thấy vào đêm hôm trước. Tim tôi đập mạnh, và tôi dò đường đi của nó. Những dấu chân này khác. Và thay vì hướng ra ngoài lối ra, nó lại hướng vào phòng tôi, về phía giường tôi.
Tôi thấy hai vết chân ướt ngay trước giường mình.
Bà của Ren đã nhìn tôi ngủ tối qua.