
Tôi là một thầy trừ tà, và đây sẽ là công việc cuối cùng trong đời tôi (Phần cuối)

10/10/16
Xin chào mọi người. Cần phải nói là, các bạn hẳn cũng sở hữu khẩu vị giải trí nặng lắm nên mới theo dõi đến tận giờ. Mặc dù vậy, tôi không ngạc nhiên, những người như bạn là 90% cơ sở khách hàng của tôi – những người tìm kiếm cảm giác mạnh vì nghĩ rằng cuộc sống bình thường, lý trí thật nhàm chán và ngoài tấm màn là xứ sở kỳ diệu, một cuộc phiêu lưu đang đợi chờ, với cốt truyện mạch lạc và cái kết có hậu để bạn có thể kể câu chuyện cho người khác vào tối mùa thu lạnh lẽo. Một câu chuyện ngụ ngôn mà bạn sẽ chia sẻ với mọi người trên r /nosleep vàrồi trở nên nổi tiếng. Mọi người sẽ gửi cho bạn các tin nhắn riêng tư, họ sẽ đề cập đến câu chuyện của bạn trong các cuộc trò chuyện với bạn bè hoặc với những người lạ khác trên Internet, trải nghiệm nghiệt ngã của bạn sẽ sinh ra một huyền thoại đô thị mới, mãi mãi hiên ngang đứng trên bệ đỡ tỏa rạng hào quang.
Đây không phải là câu chuyện như vậy. Đây là câu chuyện về hai thiếu niên không bao giờ còn trở về với cha mẹ sau khi cố thoát khỏi trại tâm thần bị ma ám, và ba người bạn của họ đã hứng chịu chấn thương bởi sự kiện này như thế nào. Đây là một câu chuyện khiến bạn suy nghĩ về điều mình thực sự muốn, để biết được hậu quả những ham muốn của bạn. Một số người muốn xem ảnh của những con ma hoặc biết nơi tị nạn nằm ở đâu, ngay cả khi tôi đã mô tả chuyện xảy ra với cả nhóm thanh thiếu niên dại dột. Trong thâm tâm, tôi tin rằng một số bạn vẫn sẽ cố gắng tìm địa điểm. Thậm chí còn tự mình khám phá nó. Tôi là một người thực tế, chắc chắn thông điệp của tôi chưa đến được với tất cả mọi người. Ngay cả bây giờ, khi bạn có lẽ đang cố gắng thuyết phục bản thân rằng câu chuyện này là sự thật – chỉ để tăng yếu tố đáng sợ của nó – vẫn còn một giọng nói nhỏ trong đầu bạn thì thầm: Không có ma. Anh chàng này chỉ muốn thúc giục bạn đi càng mau càng tốt. Bằng chứng ở đâu? Rồi lần tiếp theo khi ai đó mời bạn đi khám phá một tòa nhà bỏ hoang, bạn đồng ý ngay mà không suy nghĩ về những cảnh báo của tôi. Sao cũng được, đó sẽ là mồ chôn. Tôi không tới vì bạn đâu. Vì sau đêm đó, tôi nghỉ việc.
Khi ánh sáng mờ dần, tâm trí tôi chạy đua xem phải làm gì trong hoàn cảnh này. Chắc chắn, việc có tới 4 người: tôi, Eliot, Peter, Sarah, đã tăng tỷ lệ sống sót của chúng tôi. Nhưng mặt khác, các cậu bé bị sang chấn tâm lý, tất cả đều đói, mệt, mất nước, bao gồm cả tôi và Sarah. Trên hết, chúng tôi không còn nguồn sáng nào cả: điện thoại chúng đã hết điện và cục pin cuối cùng của tôi cũng đã hết. Ngay cả nếu tìm được cách sống sót trong đêm, chúng tôi vẫn không biết làm thế nào để rời khỏi trại tâm thần.
Tôi cố gắng giải thích với bọn trẻ rằng chúng phải ở bên cạnh tôi mọi lúc, và cho chúng hiểu nhanh về việc các linh hồn là gì và làm thế nào để chống lại. Tôi mệt mỏi đến mức không thể nói hết câu, cơn đau nhói ở cổ họng cùng với mùi kim loại trên nướu khiến tôi biết rằng mình không nên nói nữa. Nhưng nhìn vào lũ trẻ bất lực trước mặt, tôi không thể không cố gắng để xốc tinh thần của chúng, nói với mấy đứa rằng chúng có thể làm được. Vào lúc đó, tôi là hình mẫu duy nhất có tầm ảnh hưởng, phải cố hết sức để chúng nhận ra rằng nếu tôi có thể mạnh mẽ thì chúng cũng vậy. Các chàng trai chỉ gật đầu mà không có chút nhiệt tình nào: ý tưởng đi vào màn đêm một lần nữa khiến mấy đứa nhỏ sợ hãi, như thể được bảo rằng chúng sẽ bị xử tử vào lúc nửa đêm, và chúng không có chút can đảm nào để che giấu sự thật đó. Sarah, mặt khác, nuốt lấy từng lời tôi nói: theo bản năng, cô bé biết rằng nếu muốn sống thì phải làm như tôi bảo, đó là ván cược tốt nhất của nó. Mặc dù đã chịu đựng nhiều căng thẳngi, nhưng ít nhất con bé vẫn đủ dũng cảm để chuẩn bị đối mặt với tất cả một lần nữa, trong khi các chàng trai chỉ nghĩ đến thôi đã hoảng loạn.
Khi màn đêm buông xuống, tôi cùng ba đứa trẻ ráng ở gần nhau, mặc dù đó chỉ là cách nói nhẹ nhàng hơn chút: chúng tôi áp sát rạt, vai kề vai, chân vấp vào nhau. Chúng tôi không có nguồn sáng, vậy nên phải di chuyển thật chậm, cố căng mắt nhìn bất cứ thứ gì trong bóng tối trước mặt. Mỗi bước chân mới, mỗi chuyển động run rẩy mới là một bước nhảy vọt của niềm tin khi chúng tôi sử dụng tất cả các giác quan để phát hiện ra âm thanh của chuyển động hoặc thậm chí là sự rung chuyển của ván sàn.
Elliot canh chừng xem liệu có gì phía sau không. Chúng tôi đặt tất cả niềm tin vào khả năng của thằng bé để phát hiện ra điềm gở và cảnh báo, giống như nó cũng đang đặt niềm tin tương tự vào chúng tôi: thằng bé liên tục đi lùi, và tôi có thể cảm nhận được bàn tay nhỏ nhắn, run rẩy nắm chặt thắt lưng mình. Bên cạnh tôi, Sarah nắm lấy bàn tay, và ngay cả trong bóng tối, tôi vẫn thấy các khớp xương ngón tay trắng nhợt của con bé khi siết chặt tay Eliot.
Chúng tôi đã không có hướng đi cụ thể hoặc một đích đến: chỉ tiếp tục di chuyển để tránh bị bao vây. Ngay cả khi tầm nhìn bị giới hạn trong vài mét, tôi vẫn có thể phát hiện ra nhiều chuyển động ở đây và kia: từ tiếng thở hổn hển của lũ trẻ, chúng thấy những thứ giống nhau.
Có những cái bóng nhỏ xíu mà tôi chỉ nhìn thấy qua khóe mắt. Tiếng cào xé,tiếng bước chân phát ra từ các phòng bệnh đóng kín, và đôi khi cánh cửa sẽ lay động như thể có một cơn gió nhẹ, mặc dù không khí vẫn đặc quánh ngột ngạt. Đôi khi tôi nghe thấy gì đó ngay bên rìa bóng tối, chỉ cách chúng tôi 5 mét – đủ gần để biết có một mối đe dọa lờ mờ ngay đây, đồng thời đủ xa để nhìn và nhận ra nó. Thỉnh thoảng, tôi cảm nhận có ai chạm vào chân mình, và qua lời của lũ trẻ thì chúng cũng có cảm giác như vậy. Âm thanh, chuyển động – tất cả kết nối với nhau, làm cho toàn bộ hành lang trở thành cơ thể của một sinh vật to lớn, khiến tôi hoang mang rằng liệu mình có đi đúng hướng.
Bất chợt, mùi hôi thối xộc thẳng vào mặt tôi, như thể tôi đang nhìn vào lỗ mũi con Bull mà không hề hay biết. Tôi dừng lại, làm ba cơ thể phía sau cũng chững bước. Tay Elliot trên thắt lưng tôi bắt đầu run rẩy. Thật nguy hiểm nếu đi tiếp, điều đó rất rõ ràng, vì vậy tôi quay đầu về phía bọn trẻ để thông báo rằng có thứ ngay phía trước chúng tôi. Không có sự sợ hãi nào được biểu lộ trên khuôn mặt chúng, dù sao đi nữa – chỉ là một cú sốc bất ngờ, còn não bộ chắc đã nhận ra trước tất cả rồi.
Tôi đã phạm một sai lầm nghiêm trọng khi quay lưng lại với bóng tối, và bất cứ thứ gì đang chầu chực, không hề lãng phí một khoảnh khắc để lợi dụng nó.
Nó làm tôi sững sờ, và sẽ là nói dối nếu đảm bảo rằng tôi không sợ. Đó là một cảm giác kỳ lạ, như thể những sợi dây nóng hổi trườn lên chân rồi thọc vào bụng tôi. Nhưng chính vì nỗi sợ mà tôi phản ứng gần như ngay lập tức. ‘Đánh hoặc tránh’, hãy nhớ lấy, và đứng cạnh ba người liền thì tôi không còn chỗ nào để chạy trốn. Tôi vung tay ra trước, bật ra một tiếng lầm bầm khản đặc, nhưng khoảnh khắc tôi nhìn lên hành lang thì nó đã trống rỗng. Dù là gì đi nữa, thứ đó biến mất nhanh như khi nó xuất hiện.
Bọn trẻ cùng khóc trong kinh hoảng, tôi phải ra dấu để giữ im lặng. ‘Đứng sát lại với nhau’ – là tất cả những gì tôi nói, mặc dù điều đó thậm chí còn chẳng cần thiết: chúng đã tận mắt chứng kiến những gì có thể xảy ra nếu bất cẩn. Đồng thời, tôi hiểu rằng các linh hồn đang tìm kiếm sơ hở, và việc bị tấn công chỉ còn là vấn đề thời gian.
Tôi không thể ra đi nếu không chiến đấu, nhưng phải xem tôi sẽ làm gì trước đã. Đó là lúc tôi chợt nhớ ra: tôi vẫn còn máy ảnh! Pin của nó, dù không thể sử dụng cho đèn pin, vẫn phải mang theo để thay. Tất nhiên, đèn flash của nó sẽ chiếu sáng hành lang chỉ trong giây lát, nhưng còn tốt hơn là không có gì.
Tôi rút nó ra khỏi ba lô rồi hít một hơi thật sâu, nhấn nút.
Tôi không có bất kỳ bức ảnh nào từ lúc đó, nhưng vẫn mang theo những chi tiết nhỏ nhặt nhất về những gì tôi thấy, thậm chí sau 3 năm phục hồi. Càng viết, tôi càng thấy nó rõ hơn trước mắt, há hốc nhìn tôi với cái bụng to lớn của nó. Chúng ở khắp mọi nơi. Khắp mọi nơi, theo nghĩa đen.
Các bệnh nhân.
Một số đang ngồi trên sàn, ôm đầu gối. Một số dựa vào các bức tường, và một cặp vợ chồng bò về phía chúng tôi, treo người trên trần nhà: các định luật vật lý đã bỏ qua họ. Vài người đang cẩn thận nhìn ra khỏi phòng bệnh, như thể bóng tối không che giấu họ đủ tốt, khiến tôi nhận ra rằng họ không chỉ ở quanh chúng tôi trên hành lang, mà còn ở sau các bức tường. Ai mà biết có bao nhiêu người đã ở đó, nhưng tôi biết rằng tất cả đã dõi theo chúng tôi. Nhưng tất cả bọn họ đều đang nhìn chằm chằm vào chúng tôi với đôi mắt không tròng trống rỗng. Không có sự tò mò hay thù địch – chỉ có lời thỉnh nguyện chưa được nói ra.
Một cái nháy sáng nữa: Daisy. Sự hiến dâng bằng máu. Những đường hầm địa ngục. Các cặp mắt ngập trần khao khát vây quanh chúng tôi.
Đó là cách Eliot cùng tôi thoát ra khỏi đường hầm. Những con quái vật đã giữ được Daisy, người sẵn sàng trao thân cho chúng từng mảnh một. Chúng đã có được những gì mình muốn, một tâm hồn non nớt bị giam cầm trong sự điên loạn khốn cùng cai trị nơi đây. Trả lời cho lý do chúng tôi được phép rời đi: cả nhóm đã trả cái giá đẫm máu.
Tôi không thể yêu cầu bất cứ đứa trẻ nào thay thế mình. Sự huyền bí là một phần thế giới của tôi, không phải của chúng, và thật phù hợp nếu tôi ở lại đây. Nhưng trước hết tôi phải gửi đi được thông điệp của mình.
Rút cuốn nhật ký ra khỏi ba lô, tôi đưa nó cho Sarah, làm dấu im lặng cùng lúc. ‘Hãy dẫn họ ra ngoài’ – tôi thì thầm, rồi nhẹ nhàng đẩy chúng đi. Các chàng trai nhìn tôi tuyệt vọng: có lẽ chúng tưởng tôi sắp đang bỏ rơi mình. Chỉ có Sarah vẫn quan sát tôi với ánh mắt kỳ lạ xen lẫn sự tò mò và hoang mang. Con bé đủ thông minh để hiểu rằng tôi sẽ không rời bỏ lũ trẻ sau tất cả những gì tôi đã trải qua để đến với chúng, nhưng nó cũng không thấu được suy nghĩ của tôi.
Quay lại, tôi mở rộng vòng tay và bước thẳng vào bức tường ma. Tôi nghĩ, có lẽ sẽ thanh thản hơn nếu hy sinh vì nghĩa cử cao đẹp, nhưng tôi đã nhầm: trong một khoảnh khắc, tôi nhận ra rằng mình săó bước vào một thế giới đầy hận thù và khổ sở. Đau đớn vượt ngoài thể chất hay tinh thần.
Giờ tôi đã hiểu họ khao khát điều gì: sự kết thúc. Nơi đó, nhà thương điên, là biểu hiện của sự đau khổ điên rồi, và khi chết đi, mong muốn duy nhất của họ là nhân rộng nó, để người khác biết cảm giác của họ như thế nào. Và khi có được tôi, họ muốn chắc chắn rằng tôi sẽ là một khán giả đủ tốt.
Cảm giác như tôi đang bị kéo vào chính bản chất của họ, bên trong họ, qua từng kẽ hở thối rữa. Thật là điếc tai khi vừa nghe, vừa cảm mọi thứ cùng một lúc, và nếu có thể tôi sẽ kết thúc chuyện này bằng mọi giá, nhưng tôi còn không biết cơ thể mình ở đâu nữa. Tôi thấy tâm trí mình dần bị xóa nhòa bởi sự điên cuồng dữ dội, toàn bộ sự tồn tại của tôi bị tan nát thành một cơn ác, và tôi biết điều này sẽ không bao giờ kết thúc.
Vậy nên, bạn có thể tự hỏi làm thế nào giờ tôi lại viết được điều này. Làm thế nào tôi ra ngoài?
Chà, đó là nhờ Sarah.
Tôi biết con bé mạnh mẽ và tôi có thể dựa vào nó để tìm lối ra, nhưng tôi không bao giờ tưởng tượng được điều gì sau đó. Khi Sarah trở về nhà, yếu đuối, ủ rũ và hầu như không đứng vững, nó sẽ gặp lại bậc cha mẹ đang sửng sốt, những người đã ngay lập tức gọi cảnh sát và xe cứu thương, sau đó đưa con bé đến bệnh viện gần nhất. Sarah không nói với họ bất cứ điều gì, không một từ nào về nơi nó đã ở và những gì cô bé đã trải qua. Chẳng ai đó tin nó cả. Cô bé không trả lời các câu hỏi của cảnh sát về số phận của Tomas và Daisy. Nó chẳng nói với bác sĩ về các vết thương, hay đề cập về tôi với bố mẹ – những người đã thuê tôi. Nó chẳng làm gì cả, và đêm hôm sau, con bé lẻn ra khỏi bệnh viện rồi quay trở lại cái nhà thương điên, hoàn toàn cô độc.
Tôi không biết Sarah làm thế bằng cách nào, nhưng khi bình minh lại lên, nó đã thành công kéo tôi ra khỏi đó, nắm chặt lấy tay tôi. Lúc này, tôi chẳng còn đủ tỉnh táo hay khỏe mạnh nữa – tôi sụt tới 14 kí lô và tóc chuyển màu bạc trắng. Phải mất một năm sau tôi mới nói trở lại được, mà không nhờ tới Sarah thì còn lâu hơn nữa.
Sau này, Sarah thừa nhận rằng nếu không làm điều đó ngay tối hôm sau thì có lẽ nó sẽ không bao giờ thu lại hết can đảm để trở về trại tâm thần thêm lần nữa. Con bé sẽ chỉ chôn vùi một phần cuộc sống của mình vào ký ức. Nó phải đi khi các kinh nghiệm vẫn còn là mới đây, bởi Sarah mang ơn người lạ không tên đã liều mạng cứu sống nó cùng bạn bè.
Bây giờ Sarah rất hiếm khi rời khỏi tôi. Con bé thường đến thăm khi tôi đang trong quá trình hồi phục và ngày càng thường xuyên. Nửa năm trước, nó chuyển đến, bất chấp sự phản đối của bố mẹ. Tôi, ngược lại, không bận tâm lắm.
Sarah thường hỏi tôi về những kinh nghiệm trước đây với tư cách là một ‘nhà nghiên cứu các hiện tượng siêu nhiên’, như cách nó luôn gọi tôi, và tôi không hề thấy phiền khi kể cho cô bé nghe.
Chúng tôi không bao giờ đề cập hoặc nhớ lại hoàn cảnh gặp nhau. Nó rất khó khắn cho cả hai, mặc dù gần đây Sarah bắt đầu nhắc đến nó ngày càng nhiều hơn, bất chấp sự phản đối của tôi. Chính con bé là người giữ nhật ký của tôi suốt thời gian nà: nó có ý rằng tôi nên đối mặt với nỗi sợ cũ và nói với cả thế giới về điều đó. Có lẽ đó là một ý tưởng hay: Sarah kể, đôi khi tôi gào thét vào ban đêm, vậy nên chắc tôi nên cứng rắn lên và đối mặt với những vấn đề của mình như ngày xưa. Tôi vẫn nhìn thấy những gì những sinh vật đó, đôi khi tôi vẫn cảm thấy buồn nôn đến tuyệt vọng, nhưng dần dần tâm trí cũng bắt đầu lành lặn, và tự hào nói rằng mỗi buổi sáng, chiếc dao cạo trong tay tôi vẫn đều đều ổn định.
Sáng hôm nay tôi thấy chú lạnh ngắt. Chú đã cắt nhầm vào cổ họng. Tôi nghĩ chú sẽ muốn mình đăng những lời nhắn nhủ cuối cùng này lên.
Sarah.
Đề xuất bài viết cho bạn
Like
0%
Dislike
0%
Cám ơn
0%
Đánh giá cao
0%
Phấn Chấn
0%
Tức Giận
0%
Tức muốn bắn
0%
Buồn
0%
Khóc
0%
Ngầu
0%
Quỷ Dữ
0%
Nhảm nhí
0%
Comments