Tôi không nhớ gì nhiều vào đêm đó, ngoài việc tôi tỉnh giấc vì một tiếng động lạ và thấy cánh cửa sổ vỡ toang. Tôi không hẳn là một người đàn ông gan dạ, nhưng nếu gia đình tôi bị đặt vào nguy hiểm, tôi sẽ làm bất cứ thứ gì để bảo vệ họ. Tôi với lấy cây gậy bóng chày định tặng Alex làm quà sinh nhật tuổi thứ 10, và đi thám thính trong bóng tối. Trước khi tôi chuyển một góc khuất, một cơn đau sắc bén xiên thẳng qua ngực tôi, một trong mấy tên đột nhập đã đâm dao vào sườn tôi. Tôi ngã xuống đất, cố với lấy hơi thở yếu ớt và giãy giụa bằng đôi chân bất động.
Tôi thử gọi với đến vợ mình để cảnh báo cô ấy về mấy tên đột nhập, để cho cô ấy cơ hội chạy trốn cùng hai đứa con, nhưng khi đó phổi tôi đã tràn máu, và tôi đã không thể ép ra một tiếng rõ chữ nào.
Tôi nằm đó, chết trong vô vọng trên sàn nhà trong khi vợ tôi cố gắng đánh đuổi hai tên đàn ông đã đột nhập vào nhà chúng tôi. Cô ấy hét lên đau đớn khi con dao đâm xuyên qua cô ấy, từ hoảng loạn, cô dần đi tới thở gấp, và rồi im lặng bao trùm ngôi nhà. Mọi thứ dần trở nên tối um…
Có lẽ vì chúng đã không kiểm tra kép, hoặc đống máu tôi nằm trên khiến tôi nhìn như đã chết, nhưng bất chấp sự cố gắng của chúng trong việc tàn sát cả nhà tôi, bằng cách nào đó mà tôi vẫn sống sót. Tôi bị đánh thức bởi tiếng còi cấp cứu của chiếc xe đang chở tôi đến bệnh viện, và tôi kêu khóc cho gia đình của mình trong lúc các y bác sĩ chuẩn bị để phẫu thuật cho tôi. Lúc đó tôi chưa biết họ đã chết cả rồi, lúc đó, tôi vẫn còn hy vọng.
Nhưng niềm tin nhỏ bé rằng vợ con tôi vẫn còn sống sót, nhanh chóng bị dập tắt.
Theo lời cảnh sát, bọn đột nhập là bọn đang đi tìm kiếm bất cứ thứ gì chúng có thể bán. Trong lúc đột nhập, chúng đã phê cần đến mức mất lý trí, và đã tấn công bất cứ ai lọt vào tầm nhìn của chúng. Kể cả khi cảnh sát còn đuổi theo chúng và chúng đánh lại, và cuối cùng dẫn đến việc cả hai bọn chúng bị bắn chết.
Không một lời giải thích cụ thể, không một lý do rõ ràng cho vụ việc, lý do chúng chọn nhà chúng tôi thay vì căn nhà trống của nhà hàng xóm. Tôi bị để lại với không một lời giải thích chính đáng nào, không một chút công lý nào.
Về bản thân tôi thì, cú đâm đó khá sâu, thậm chí đến mức làm tổn hại một phần sống lưng tôi, đủ để tôi phải hạn chế việc đi lại và cử động cánh tay trái. Phải mất mấy tháng trời bình phục tôi mới có thể về ngôi nhà trống không đó.
Như lẽ thường tình, mẹ tôi muốn tôi ở với bà cho đến khi tôi vượt qua được mọi chuyện. Bà ấy cũng già rồi, nhưng bà vẫn muốn chăm sóc tôi, giúp đỡ tôi vượt qua khoảng thời gian khó khăn này. Bà ấy rất ý nghĩa với tôi, nhưng theo một cách trầm buồn đến đau khổ, việc ở trong ngôi nhà đó là mối nối duy nhất giữa tôi và gia đình đã mất của tôi. Đó là nơi của tình thương, chan đầy những kí ức của một cuộc sống bị cắt ngắn đến thô bạo.
Dù tôi cảm thấy gắn kết với họ hơn trong ngôi nhà ấy, tôi vẫn không dám ngủ trong phòng ngủ cũ của vợ chồng tôi hay hai đứa con của tôi. Tôi ngủ trong phòng khách, nơi duy nhất chưa nhuốm màu đau thương từ tai nạn ấy.
Vài tuần sau đó, tôi sống trong sự chối bỏ cái chết của 3 mẹ con và sự dằn vặt chính bản thân tôi vì đã thất bại trong việc bảo vệ gia đình mình. Chỉ trong vòng 5 phút, cả thế giới của tôi đã bị đập nát đến mức không thể phục hồi, và tôi chỉ có thể thấy một tương lai đau đớn, không hề dễ chịu nằm đợi mình phía trước.
Ngôi nhà vẫn kêu lên những tiếng kì quặc thường ngày của nó: Tiếng cót két, tiếng gió thổi, và tiếng thì thầm sau mỗi cánh cửa đóng. Chúng luôn khiến tôi thấy bớt cô đơn hơn phần nào, nhưng trong quá khứ chúng không hơn không kém một sự hiện hình mờ nhạt, là một thứ để lơ đi, để đẩy về phía sau tâm trí tôi. Sau tai nạn đó chúng dường như choàng tỉnh, trở nên rõ ràng và rành mạch hơn. Tôi càng cố lắng nghe tiếng ngôi nhà nói chuyện, tiếng thì thầm ấy càng trở nên tròn vần rõ chữ hơn, và chẳng mấy lâu tôi đã thực sự hiểu được chúng.
Một đêm nọ, ba tuần và ba ngày sau khi tôi trở về nhà, tôi thức giấc vì một giọng nói cất lên dưới hành lang. Tôi vội đứng lên, và dần tiếp cận những âm thanh đó. Nghe như tiếng ai đó hát vậy; một giọng hát nhí nhảnh và đẹp đẽ bắt nguồn từ phòng ngủ cũ của chúng tôi.
Nhưng, đó không phải là một bài hát lạ lùng gì với tôi. Không, đó là điệu nhạc mà vợ tôi từng hát mỗi khi cô ấy chuẩn bị đi làm vào buổi sáng. Một vế nhạc Ý cổ mà mẹ cô ấy từng hát cho con nghe khi cô ấy vẫn là một đứa trẻ. Tôi chưa từng hiểu được lời bài hát, nhưng chúng vẫn luôn khiến tôi thấy thoải mái, kể cả vào những ngày mệt mỏi nhất. Nó đã trở thành biểu tượng của tình yêu và sự bình yên, thứ mà tôi vẫn hằng mong nhớ khi giờ đây cô ấy đã không còn.
“??????” Tôi nói, bắt đầu tự hỏi rằng có phải mình đang mơ hay không.
(Hết phần 2)