
Bà tôi từng nói nhà bà ấy bị ám.
“Chúng ở bên kia những cánh cửa. Nếu cháu nghe kĩ cháu có thể nghe thấy chúng,” bà thường nói.
Đó không phải giọng của một người phụ nữ đang sợ sệt. Chúng không được chất đầy bởi nỗi buồn đau hay tuyệt vọng, mà là bởi sự vui sướng. Bà thường kể tôi nghe về những con ma trốn trong nhà bà, mỗi khi như vậy đôi mắt bà thường chứa chan nỗi mong nhớ và tình yêu thương.
“Vậy, chúng không phải ma ác ạ?” Tôi thường hỏi, khi tôi vẫn còn quá trẻ để hiểu được ranh giới phức tạp giữa tốt đẹp và xấu xa.
“Dĩ nhiên rồi, cháu yêu. Họ sẽ không bao giờ làm hại cháu đâu.”
Tôi thật sự yêu bà mình, nhưng tôi không thường xuyên ghé thăm bà được, mẹ tôi thường không cho phép tôi làm vậy. Với mẹ, ngôi nhà ấy toát ra một bầu không khí khó chịu và đầy ma mị, cứ như thể một sinh vật vô danh, bí ẩn và ghê rợn đang vờn quanh ngôi nhà vậy. Oái oăm thay, nhà tôi cách nhà bà tôi vài tiếng lái xe, nên vì những nếp nhăn dần sâu hơn và sức khoẻ ngày một yếu đi của bà mà bà không thể ghé thăm chúng tôi thường xuyên. Tôi thường rất buồn về việc bà tôi phải sống một mình trong một căn nhà lớn và cũ kĩ như vậy, nhưng có vẻ như bà ấy không để tâm đến điều đó.
“Bà có ở một mình đâu,” bà vẫn luôn nói, “tình thương của hai chúng ta đã níu giữ ta lại với nhau, kể cả khi ông ấy đã mất.”
Tôi biết bà đang nói về ông tôi, người chồng quá cố của bà. Dẫu sao thì, có thể bà đang nhắc đến những người đã giúp bà nguôi nỗi cô đơn, những người mà tôi thường cho là cụ cố tôi, hay thậm chí là anh chị em ruột của bà tôi. Vào thời của bà tôi, người ta thường dành những giây phút cuối đời ở trong nhà, nơi họ có thể dành thời gian đó cho những người thân quen và cảm thấy thoải mái hơn trên chính chiếc giường của mình. Vì lý do đó, rất nhiều người đã trút hơi thở cuối trong chính ngôi nhà của bà tôi.
Thời gian trôi qua, kí ức của tôi về ngôi nhà cũ cũng dần phai nhạt. Tôi cứ bận lớn lên, và mẹ tôi cũng chẳng buồn ghé thăm căn nhà ấu thơ ấy. Vào tuổi chín muồi chín-mươi-lăm, bà tôi mất, một cách yên bình trong chính nhà của bà với một nụ cười vẫn còn vương vấn trên môi.
Di chúc và mấy loại giấy tờ khác của bà đến vào vài tuần sau đó. Vào lúc đó, tôi đã chưa thăm bà trong vài năm rồi, và mấy giấy tờ của bà khiến tôi cảm thấy hơi tội lỗi. Bà không để lại tâm thư gì nhiều, nhưng bà có đề xuất kế thừa tất cả cho mẹ tôi, tất cả mọi thứ trừ ngôi nhà, thứ duy nhất dành cho tôi.
Có lẽ vì bà thấy tôi đang trong quá trình chuẩn bị cưới vị hôn thê đang mang thai của mình, nên bà đã chọn một món quà hoàn hảo để chúng tôi bắt đầu cuộc sống mới cưới một cách thật hạnh phúc.
Chúng tôi chuyển vào khoảng 1 tháng sau đó, sau khi dành chút tiền ít ỏi còn lại vào việc tân trang lại ngôi nhà. Không như bầu không khí ấm áp nhưng bí ẩn ngôi nhà từng có khi tôi còn là một đứa trẻ con, tôi cảm thấy lạnh lẽo và rợn mình khi đã là người lớn. Kể cả với đồ nội thất mới và khung nhà đã sửa, ngôi nhà vẫn kêu những tiếng cót két và những tiếng thì thầm sau mỗi cánh cửa đóng.
Vị hôn thê của tôi – vợ tương lai của tôi, Alice, cũng để ý thấy làn sương mù kì quái bao trùm cả ngôi nhà, và mẹ tôi vẫn chần chừ ghé thăm. Nhưng, kể đến cùng thì, bà tôi đã sống một cuộc sống đầy đủ và hạnh phúc trong ngôi nhà này, và chưa thứ gì từng hại bà, nên chúng tôi đã khá nôn nóng để được bắt đầu một cuộc sống mới cùng nhau.
Hoá ra nơi này khá là yên bình và đẹp đẽ, hoàn hảo để nuôi dạy trẻ con, với những thảm cỏ xanh mướt và khu rừng rậm rạp bao quanh cả khu. Chúng tôi dành 10 năm tiếp theo ở nơi đó, với hai đứa trẻ: một cậu bé tên Alex, và một cô bé tên Amanda. Ngay từ những khoảnh khắc đầu tiên, mọi thứ đã có vẻ như chúng tôi đang tạo nên một cái kết có hậu mãi mãi về sau vậy.
Nhưng cuối cùng thì, mọi sự đổ bể. Vào mùng 3 tháng 11 năm 2017, cả gia đình của tôi bị giết trong một vụ đột nhập tai hại.
(Hết phần 1)